-
Căn cứ khu uỷ Sài Gòn-Gia Định. Địa chỉ: xã Tân Phú Tây, huyện Mỏ Cày Bắc, tỉnh Bến Tre. Để đến thăm khu di tích lịch sử này bạn có thể tìm những địa chỉ thuê xe máy Bến Tre uy tín để tiện cho việc di chuyển. Di tích căn cứ Khu ủy Sài Gòn Gia Định có mật danh là Y4 và T4. Đây là cơ quan đầu não đã chỉ huy cuộc kháng chiến chống Mỹ tại khu vực đô thị Sài Gòn Gia Định trong khoảng thời gian từ tháng 8/1969 - 10/1970. Di tích căn cứ Khu ủy Sài Gòn Gia Định được lãnh đạo bởi đồng chí Võ Văn Kiệt (bí thư), hai đồng chí Trần Bạch Đằng, Mai Chí Thọ (phó bí thư) và lực lượng A6 anh hùng, quả cảm. Sau trận Tết Mậu thân 1968, quân địch đã điên cuồng phản kích và liên tiếp tấn công vào những nơi trọng yếu của ta. Trong tình hình “ngàn cân treo sợi tóc” đó, Thành ủy đã họp và đưa ra quyết định di chuyển căn cứ về địa phận hai xã Thành An, Tân Phú Tây, huyện Mỏ Cày (hiện nay là huyện Mỏ Cày Bắc), bởi nơi đây từng là vùng đất giải phóng, quân và dân đều kiên cường với truyền thống cách mạng lâu đời. Không những thế, địa hình của Di tích căn cứ Khu ủy Sài Gòn Gia Định còn vô cùng hiểm trở với hệ thống rạch chằng chịt, bị chia cắt, có nhiều vườn dừa san sát nhau giúp hạn chế việc quân địch tiến vào địa phận của ta bằng xe cơ giới, thiết giáp hay trực thăng.
-
Chùa Tuyên Linh tọa lạc tại ấp Tân Thới Đông B, xã Minh Đức, huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre. Chùa Tuyên Linh được xây dựng từ năm Tân Dậu (1861), dưới triều Tự Đức thứ 14. Ban đầu, chùa có tên là Tiên Linh, ý gọi cô Sầm – người bị cọp vồ là Tiên, không dám gọi là Tinh, để hàm ý ngôi chùa mang tên cô gái linh thiêng. Chùa Tuyên Linh được coi là một trong những trung tâm phật giáo của tỉnh Bến Tre. Trụ trì đầu tiên của chùa là hòa thượng Khánh Phong. Năm 1907, nhà sư Lê Khánh Hòa, pháp danh là Thích Như Trí, quê ở xã Phú Lễ, huyện Ba Tri, vốn là một vị cao tăng tinh thông phật học, về trụ trì tại chùa này. Tại đây, hòa thượng Lê Khánh Hòa đã mở mang việc thuyết giảng giáo lý nhà Phật, đào tạo môn sinh. Nhờ hiểu rộng, đi nhiều nơi, có vốn nho học, lại biết cả chữ quốc ngữ, nên ông được tín đồ, các cư sĩ Phật giáo tín nhiệm. Hòa Thượng là người sáng lập ra Nam Kỳ Phật học hội và Lưỡng Xuyên Phật học hội quy tụ nhiều cao tăng, cư sĩ Phật giáo ở Nam Kỳ lúc bấy giờ, đồng thời là chủ bút tạp chí Từ bi âm, giám đốc Phật học tùng thư. Chùa Tuyên Linh còn là một ngôi chùa có bề dày truyền thống Cách Mạng. Thời kháng chiến chống Pháp, đây là một là cơ sở nuôi giấu cán bộ cách mạng. Khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Hòa thượng Lê Khánh Hòa đã động viên các nhà sư và tín đồ Phật giáo trong tỉnh tham gia vào các hoạt động cách mạng và kháng chiến. Năm 1947, trên giường bệnh, ông đọc lời di ngôn cho môn đồ chép lại, căn dặn học trò thân tín vận động tín đồ tích cực tham gia kháng chiến, tin tưởng vào Chính phủ Cụ Hồ, cùng đồng bào cả nước đấu tranh giành độc lập. Trong những năm trước Đồng khởi, trong thế kìm kẹp khắc nghiệt của Mỹ, Diệm, vùng Tân Hương – Minh Đức, nơi có chùa Tuyên Linh , vẫn là một trong những nơi có phong trào Cách mạng phát triển mạnh mẽ nhất của tỉnh Bến Tre. Các cơ quan Huyện ủy Mỏ Cày và Tỉnh ủy Bến Tre đã từng trú đóng tại chùa Tuyên Linh dưới sự giúp đỡ, che giấy của nhân dân và tín đồ đạo Phật giáo trong thời gian hoạt động Cách mạng. Đặc biệt, vào khoảng cuối năm 1920, lần đầu tiên cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc đã cùng một vị cao tăng của chùa Từ Đàm ở Huế ghé lại và tá túc tại chùa Tuyên Linh một thời gian. Cụ Phó bảng được sự bảo bọc, giúp đỡ của Hòa thượng trong thời gian lưu trú tại chùa. Cụ đã mở lớp dạy học, xem mạch, bốc thuốc cho nhân dân trong vùng. Tuy thời gian ở đây không lâu, cụ Nguyễn Sinh Sắc đã có mối quan hệ với các ông Trần Văn An, Huỳnh Khắc Mẫn, Lê Văn Phát. Nhiều người trong số này về sau trở thành lớp Đảng viên đầu tiên của Đảng bộ Bến Tre. Theo một số thông tin, năm 1930, Hòa thượng Lê Khánh Hòa đổi tên chùa thành Tuyên Linh theo gợi ý của cụ Phó bảng; trong đó “Tuyên” có nghĩa là “Tuyên truyền”. Ngày 20/07/1994, Chùa Tuyên Linh đã được Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch công nhận di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia. Ngoài những lệ cúng trong năm, vào dịp kỷ niệm sinh nhật Bác (19/5), một lễ hội văn hóa với quy mô lớn được tổ chức tại chùa Tuyên Linh.
-
Di tích cuộc thảm sát 286 người của quân Pháp ở ấp cầu Hòa Di tích cuộc thảm sát Ấp Cầu Hòa thuộc xã Phong Nẫm, huyện Giồng Trôm, cách thị xã Bến Tre 9 km theo đường bộ. Vào lúc 5 giờ sáng ngày 10-1-1947 (ngày 19 tháng chạp năm Bính Tuất) , hai trung đội lính lê dương do tên thiếu úy Tây lai Leon Leroy chỉ huy theo đường sông từ An Hóa theo kênh Chẹt Sậy đổ bộ lên ấp Cầu Hòa và ấp Nhì càn quét vì nghi ngờ có Việt Minh đang trú đóng. Không tìm ra một chứng tích nào về Việt Minh, chúng quay ra nổ súng bừa bãi vào những người dân vô tội, giết chết 286 người, gồm phần lớn là phụ nữ, trẻ em và người già. Chúng đốt cháy hơn 100 ngôi nhà. Nhiều xác chết bị cháy thiêu. Có gia đình bị giết đến 17 người, có gia đình bị giết sạch không còn người nào. Đây là cuộc tàn sát có quy mô nhất và dã man nhất ở Bến Tre trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954). Một bia căm thù được dựng lên ở đây để nhắc nhở những thế hệ sau biết rõ tội ác tày trời của giặc. Di tích được Bộ Văn hóa - Thông tin ra quyết định số 04/QĐ-BVHTT, ngày 19-1-2001 công nhận là Di tích lịch sử quốc gia.
-
Ngày 28-8-2015, Tỉnh ủy Bến Tre tổ chức trọng thể lễ công bố quyết định của Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch về xếp hạng di tích quốc gia, đối với nơi ở và hoạt động của đại tá tình báo Phạm Ngọc Thảo (dinh tỉnh trưởng cũ, sau là nhà bảo tàng tỉnh), tọa lạc tại số 146 Hùng Vương, phường 3, TP.Bến Tre, tỉnh Bến Tre.
-
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ của quân và dân ta, để chi viện trực tiếp vũ khí trang bị cho cách mạng miền Nam, cùng với con đường vận tải trên bộ, việc mở con đường vận chuyển chiến lược trên biển Đông “Đường Hồ Chí Minh trên biển” là một kỳ tích. Sự độc đáo và mưu trí sáng tạo của chiến tranh nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tại vùng căn cứ cách mạng xã Thạnh Phong, huyện Thạnh Phú năm 1946, Khu 8 và Tỉnh uỷ Bến Tre quyết định tổ chức mở tuyến đường vận chuyển vũ khí bằng đường biển. Đây là chuyến mở đường đầu tiên trong chiến tranh, chuyến mở đường lịch sử này đoàn đi có các đồng chí: Đào Công Trường – Tư lệnh khu 8 làm Trưởng đoàn, Ca Văn Thỉnh, Trần Hữu Nghiệp (bác sĩ), Nguyễn Thị Định. Sau 7 ngày lênh đênh trên biển, với tinh thần quả cảm, mưu trí và sáng tạo, các đồng chí đã vượt lên khó khăn hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, gặp được Trung ương Đảng và Bác Hồ để báo cáo tình hình cách mạng ở miền Nam. Chiến vận chuyển vũ khí lần thứ hai diễn ra vào năm 1961 cũng đã thành công tốt đẹp mặc dù địch phong toả, kiểm soát ngặt nghèo hơn. Đường Hồ Chí Minh trên biển là đường chi viện vũ khí ở xã Thạnh Phong đã chuyển hàng ngàn tấn vũ khí cho chiến trường miền Nam, góp phần làm nên nhiều chiến công vang dội trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc Việt Nam. Di tích đã được Bộ Văn Hoá - Thông Tin công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 23/12/1995, và xã Thạnh Phong cũng được Nhà Nước tuyên dương là đơn vị Anh Hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
-
Di tích Mộ và Khu tưởng niệm Nguyễn Đình Chiểu (Lăng, mộ Nguyễn Đình Chiểu), thuộc địa bàn xã An Đức, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre, là nơi thờ và an táng nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu, cùng vợ là Lê Thị Điền và con gái là Nguyễn Thị Ngọc Khuê (Sương Nguyệt Anh). Nguyễn Đình Chiểu (1822 - 1888) là đại diện tiêu biểu cho lớp sĩ phu yêu nước dùng văn thơ làm phương tiện đấu tranh với thực dân Pháp xâm lược bằng tư tưởng. Hầu hết tác phẩm văn, thơ của ông đều viết bằng chữ Nôm, vừa thể hiện tính chiến đấu bền bỉ, vừa mang nặng nỗi lòng về vận mệnh dân tộc và tình yêu thương con người. Nguyễn Đình Chiểu đóng một vai trò quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Pháp, nhưng không thể làm như Trương Định đem quân đồn điền kháng chiến, như Trần Thiện Chánh chiêu mộ quân nghĩa dũng chống xâm lăng, như Nguyễn Thông tòng quân đánh giặc..., Ông chiến đấu bằng ngòi bút, hòa mình trong cuộc chiến đấu của nhân dân và trở thành người phát ngôn của phong trào yêu nước chống Pháp. Ông là nhà thơ Việt Nam đầu tiên nói đến chiến tranh nhân dân, đề cao vai trò người nông dân, trong các cuộc khởi nghĩa chống Pháp với ý thức về nhiệm vụ và quyền lợi của mình, họ cần chiến đấu để bảo vệ “tấc đất ngọn rau, bát cơm manh áo” của chính mình, bảo vệ chủ quyền đất nước thiêng liêng. Trong những tác phẩm nổi tiếng như “Lục Vân Tiên”,“Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”, “Lục tích sĩ dân trận vong”.., ông ca ngợi tinh thần nghĩa khí và những tấm gương chiến đấu anh hùng của những nghĩa sĩ nông dân. Đối với các lãnh tụ nghĩa quân như Trương Định, Phan Ngọc Tòng,... Nguyễn Đình Chiểu đã dành những lời thơ biểu đạt nghệ thuật, tính trữ tình và anh hùng ca. Ông đã thấy được mối quan hệ giữa lãnh tụ nghĩa quân với quần chúng nhân dân, tình thương của nghĩa quân đối với lãnh tụ cũng như lòng ưu ái của lãnh tụ với nghĩa quân. Đó là quan niệm mới về anh hùng của Nguyễn Đình Chiểu, rất khác với các quan niệm phong kiến về trung quân ái quốc trước đó. Di tích Mộ và Khu tưởng niệm Nguyễn Đình Chiểu có tổng diện tích là 14.187,9m2, bao gồm các hạng mục chính: nhà bia, đền thờ mới, đền thờ cũ, khu mộ.
-
Đình Bình Hòa Bến Tre nằm trên địa bàn xã Bình Hòa, gần Khu lưu niệm Nguyễn Thị Định và đền thờ Trung Tướng Đồng Văn Cống. Ngoài ra, trên tuyến đường đến đình, bạn có thể ghé chợ Mỹ Lồng để mua loại đặc sản bánh phồng nổi tiếng của xứ dừa về làm quà cho người thân, bạn bè. Đình Bình Hòa được xây dựng lần đầu tiên vào năm 1812. Đình do bà con nhân dân dựng lên từ những vật liệu đơn sơ như cây, lá , tre, nứa để thờ thành hoàng làng. Đến năm 1852, Đình Bình Hòa Bến Tre được vua Tự Đức sắc phong. Đây là nghi lễ rất có ý nghĩa khi các thần linh thờ trong định nhận được sự công nhận từ nhà vua. Từ đó, đình được bà con nhân dân biết đến nhiều hơn, họ về đây dâng lễ để cầu nguyện những điều bình an, may mắn. Đến năm 1903, ban khánh tiết đã đứng ra để tổ chức, vận động người dân đóng góp công sức, tiền của xây dựng lại Đình Bình Hòa Bến Tre với quy mô rộng lớn hơn. Quá trình thi công mất 10 năm, từ 1903 đến 1913 thì hoàn thành. Vật liệu chủ yếu được sử dụng là gỗ tứ thiết, kết cấu gắn bằng mộng và chốt khớp, hoàn toàn không dùng đinh. Đây là kiểu xây dựng đình chùa rất quen thuộc dưới thời nhà Nguyễn, dù thô sơ nhưng vẫn vô cùng chắc chắn, giống với Đình Long Phụng dù trải qua nhiều thế kỷ vẫn còn nguyên vẹn. Ngày 25/12/1959 âm lịch, một trung đoàn công an Ngô Quyền do tên Lê Xuân Khánh chỉ huy từ Bến Tre xuống đây đóng quân. Chúng lấy đình Bình Hòa làm nơi giam cầm, tra tấn các chiến sĩ cách mạng và đồng bào ta. Quân Ngụy đã sử dụng rất nhiều hình thức tra tấn dã man, tàn ác. Theo một số ghi chép, tổng số đồng bào bị chúng bắt đến đây và tra tấn, thiệt mạng lên hơn 400 người. Ngôi đình trăm năm tuổi đã chứng kiến máu của biết bao đồng bào đổ xuống, đồng thời là chứng nhân lịch sử cho tội ác của kẻ thù. Đến năm 2012, đình Bình Hòa được trùng tu bởi Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Bến Tre kết hợp cùng Ủy ban nhân dân huyện Giồng Trôm. Quá trình tôn tạo di tích kéo dài trong 1 năm, vẫn giữ nguyên những nét đặc trưng của đình nhưng mở rộng quy mô và xây thêm những công trình phụ trợ để phục vụ khách đến tham quan và du lịch. Khi hoàn thiện, tổng diện tích đình Bình Hòa là 9.000m2 với các hạng mục chính bao gồm: nhà võ ca, thiêu hương, chính điện, tiền sảnh, hành lang, hậu đường, miếu Quan Thánh.
-
Đình Long Phụng nằm gần chùa Phật Minh, đình Phú Thuận, đền thờ liệt sĩ Long Định và Thánh thất Long Định. Đình Long Phụng là một trong những công trình tiêu biểu cho kiến trúc nghệ thuật xưa của vùng đất Bình Đại. Ngày 20/6/2018, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch - Ông Nguyễn Ngọc Thiện đã ký quyết định xếp hạng đình Long Phụng là Di tích Kiến trúc Nghệ thuật cấp Quốc gia. Đình Long Phụng được khởi công xây dựng lần đầu tiên vào năm 1833, đến cuối năm 1834 thì hoàn thành. Ban đầu, đình chỉ được dựng lên bằng cây lá đơn sơ bên bờ sông Bình Đại. Lúc này, đình không được nhiều người biết đến, chỉ có một vài hộ dân trong vùng lui tới thắp nhang cúng Thành Hoàng để cầu nguyện những điều bình an, may mắn. Đến năm Thiệu Trị thứ 5, đình được sắc phong lần đầu tiên với 2 sắc Đại càn Quốc gia Nam Hải và Bổn cảnh Thành hoàng vào ngày 27/11/1845. Đến ngày 26/12/1845, đình được Vua Thiệu Trị sắc phong lần thứ hai cũng gồm 2 sắc như trên. Đợt thứ ba là vào ngày 8/11/1850, Đình Long Phụng nhận thêm 2 sắc phong dưới thời Vua Tự Đức năm thứ 3. Tổng cộng đình có tất cả 6 sắc phong. Theo quan niệm lúc bấy giờ, sắc phong chính là sự công nhận của Vua - Thiên Tử dành cho những đình làng đang thờ các vị thần linh thiêng. Đình càng nhiều sắc phong thì càng được coi trọng, trở thành niềm tin tín ngưỡng cho cả thôn làng. Đến năm 1923, vì nhận thấy vị trí của đình làng không thuận lợi, thường xuyên bị sạt lở đất nên ông Đỗ Văn Phủ là một người có uy tín trong làng đã khởi xướng việc di dời đình Long Phụng đến địa điểm mới. Ông Phủ cũng là người chủ trì công việc xây dựng, đến cuối năm 1916 thì hoàn thành. Đình được xây mới chắc chắn với quy mô lớn hơn đình cũ, hầu hết kiến trúc vẫn còn nguyên vẹn cho đến tận ngày nay.
-
Thời Nguyễn, đình Long Thạnh có tên là Nguyệt Thạnh. Đến thời Pháp, thôn Nguyệt Thạnh sáp nhập và đổi tên thành Long Thạnh nên đình cũng được đổi tên thành đình Long Thạnh cho đến ngày hôm nay. Dấu vết còn lại của sự kiện này là hoành phi “Nguyệt Thạnh đình” ở Tiền điện. Đình Long Thạnh, xã Long Định, huyện Bình Đại được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia năm 2018. Đây là công trình kiến trúc bằng gỗ, với nội thất độc đáo còn khá nguyên vẹn ở Bến Tre. Giá trị nghệ thuật văn hóa đặc sắc của đình Long Thạnh là các đồ án trang trí trên các công trình điêu khắc gỗ, cộng với các hiện vật còn lưu giữ như: bao lam, khánh thờ, hoành phi, long trụ, long đình, câu đối... đã nâng cao giá trị nghệ thuật cho ngôi đình. Các đồ án trang trí này thể hiện sự độc đáo, sắc sảo, tài hoa của những người thợ thủ công bậc thầy trước đây qua các đề tài: dơi, hoa mẫu đơn, cuốn thư, chuột, chim, tứ quý, tứ linh, tùng - lộc, mai - hạc... Các liễn áp cột, hoành phi, câu đối, khánh thờ, long trụ, long đình được trang trí công phu, sống động. Các câu chữ ở liễn, hoành phi được thể hiện trên nền là long phụng bay lượn, chim muông hoa lá đều được sơn son thếp vàng. Đây là công trình kiến trúc nghệ thuật điêu khắc ở một trình độ kỹ thuật cao của nghề chạm khắc gỗ Việt Nam đầu thế kỷ XX. Ông Trương Công Thái - kế hiền đình Long Thạnh (85 tuổi) cho biết: “Chúng tôi tự hào về sắc thần của đình, quý ở chỗ không phải vì có sắc, mà quý vì người dân có học. Lúc đó, ông bà đã làm đề nghị gửi về triều đình. Sau đó, triều đình mới xét và cấp sắc thần. Chúng tôi tâm niệm, người dân có học cao là vô cùng quý giá. Đình Long Thạnh có tới 6 sắc. Trong đó, có 4 sắc chỉ cấp trong một tháng. Chúng tôi bảo quản các sắc thần không một vết lem nào... Các cụ kể lại, khi xây dựng đình Long Thạnh đã có một cuộc tranh đua, người sau phải đóng góp nhiều hơn người trước. Sở dĩ đình có nhiều biển, liễn như vầy là do thi đua mỗi hương chức một nhiệm kỳ phải làm 1 tấm, mà người sau phải làm lớn hơn, đẹp hơn người trước. Bác và ba tôi kể lại, mỗi người dân đóng góp 1 cây đại trụ (cây cột bằng gỗ lim)...”.
-
Khi nhắc tới Bến Tre, không chỉ khiến ta nhớ đến những vựa trái cây trù phú đã trở thành đặc sản của nơi đây như dừa, sầu riêng hay xoài,...mà ta còn nhớ đến những ngôi đình, ngôi đền cực kỳ nổi tiếng. Một trong số đó chính là Đình Phú Lễ, ngôi đình với tuổi thọ dài gần 2 thập kỷ, là trung tâm tín ngưỡng bao đời nay của người dân “xứ Dừa”. Hãy cùng BestPrice khám phá ngôi đình cổ kính này nhé!
-
Đình Tân Thạch nằm bên bờ sông Mê Kông, gần khu vực cù lao Thới An - cồn Phụng - cồn Quy. Không khí tại đây rất trong lành, tĩnh lặng, thu hút rất nhiều các khách thập phương đổ về tham quan, chiêm bái. Bạn có thể cân nhắc lên lịch trình khám phá Cồn Phụng 1 ngày, thuận tiện ghé đến đình Tân Thạch luôn nhé. Đình Tân Thạch được xây dựng vào năm 1841, lúc bấy giờ có tên gọi là đình Thạch Hồ. Đình do ông Nguyễn Quý Bằng là người đã chủ động hiến đất và vận động bà con nhân dân trong vùng tham gia đóng góp để xây nên nơi thờ Thành Hoàng làng. Cấu trúc đình làng theo hình chữ Tam (三) với ba gian chính là Võ ca, Võ quy và Chánh điện liền kề nhau.
-
Đình Tiên Thủy được xây dựng vào khoảng năm 1778 bằng cây lá đơn sơ, đến năm 1917, ngôi đình được xây dựng lại kiên cố với kiến trúc điêu khắc cổ độc đáo, sắc sảo, quy mô hơn. Các gian kiến trúc của đình đều được xây dựng theo kiểu tứ trụ (trừ gian võ quy), là kiến trúc truyền thống của đình làng ở Nam bộ. Đình Tiên Thủy có tổng diện tích là 11.587m2, diện tích xây dựng là 835,18m2. Đình có cấu trúc gồm các gian kiến trúc: võ ca, võ quy và chính điện được xây liền nhau, phía sau là nhà chỉnh y, nhà bếp và nhà tiệc. Trên nóc đình chính có một tháp trang trí 4 tranh phong cảnh, nóc trang trí hoa văn đắp nổi, 2 góc tháp đắp nổi 2 đầu rồng quay ra 2 phía; mái đình lợp ngói âm dương. Trung tâm đình là phần chính điện với kiến trúc 3 gian, 2 chái bát dần theo kiểu tứ trụ được trang trí nhiều hoành phi, câu đối, bao lam, thành vọng bằng gỗ rất có giá trị. Tuy nhiên, Đình Tiên Thủy có điểm khác biệt với các đình làng ở Nam bộ. Đó là, ngôi đình đã được vua Tự Đức phong cho 7 sắc thần. Hiện tại, Đình Tiên Long (Châu Thành) đã thỉnh 3 sắc thần về thờ, còn lại 4 sắc thần được thờ là: Cao Các Quảng Độ tôn thần, Thiên Y A Na Diễn Ngọc Phi, Bổn Cảnh Thành Hoàng, Đại Càn Quốc Gia Nam Hải và được an vị vào ngày 11/11/1852 (âm lịch). Hàng năm, đình có các lễ cúng: lễ Khai sơn (7/1); lễ cúng Quan Thánh (Quan Công) vào ngày 13/1; lễ Hạ điền (11/4); lễ Thượng điền (11/12). Đặc biệt, từ ngày 10/11- 12/11 (âm lịch) có lễ Kỳ Yên, tổ chức hát bội và du thần. Phát biểu tại buổi lễ, ông Trần Ngọc Tam, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Bến Tre cho biết: “Đình Tiên Thủy được công nhận là Di tích lịch sử cấp quốc gia là niềm tự hào của người dân địa phương. Do đó, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp cùng huyện, xã tổ chức các hoạt động bảo tồn theo Luật Di sản, hướng dẫn quản lý di tích, thu hút du khách, các nhà nghiên cứu tìm hiểu về lịch sử, kiến trúc ngôi đình”.
-
Xã Định Thủy thuộc huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre được xem là cái “nôi” của phong trào Đồng Khởi lịch sử. Tại đây, vào ngày 17-1-1960, dưới sự chỉ huy, lãnh đạo trực tiếp của nữ tướng Nguyễn Thị Định, quân và dân xã Định Thủy đã nổi dậy, nổ phát súng đầu tiên, mở màn cho phong trào Đồng Khởi khắp miền Nam. Khu di tích Đồng Khởi Bến Tre được UBND tỉnh ra quyết định xây dựng vào năm 1998, trong khuôn viên với tổng diện tích hơn 4.600 m2. Công trình được khánh thành và đưa vào sử dụng năm 2000. Phía tay phải đường vào khu di tích có một hòn đá đỏ, đẹp và lạ mắt, được đặt uy nghi, vững chãi trên một bệ tam cấp thoáng đãng. Bề mặt của hòn đá này có khắc tám chữ vàng mà Trung ương đã phong tặng cho nhân dân và các lực lượng vũ trang tỉnh Bến Tre: “Anh dũng Đồng Khởi. Thắng Mỹ diệt ngụy”.
-
Đền thờ và phần mộ Lãnh Binh Thăng nằm ở xã Mỹ Thạnh, huyện Giồng Trôm – nơi Nguyễn Ngọc Thăng sinh ra và lớn lên. Ngôi đền thờ cổ kính, rêu phong nằm khuất dưới những gốc cổ thụ già có tuổi thọ gần trăm năm. Đền thờ có diện tích khoảng 362 m2 trước đây là Đình làng Mỹ Thạnh. Mỗi du khách khi đến đền thờ Nguyễn Ngọc Thăng sẽ được nghe những câu chuyện hào hùng về Lãnh Binh Thăng, thuộc tướng của Bình Tây Đại Nguyên Soái Trương Định. Ông đã tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp ở Gia Định - Tân An - Gò Công. Nơi đây đã được công nhận là Di tích Lịch sử - Văn hóa cấp quốc gia vào ngày 07 tháng 5 năm 1997. Nguyễn Ngọc Thăng sinh ra và lớn lên tại vùng quê Mỹ Thạnh, huyện Tân An xưa, nay là xã Mỹ Thạnh, huyện Giồng Trôm. Dưới thời vua Thiệu Trị, ông tham gia quân đội triều đình, được thăng Cai cơ, đến năm 1848 được thăng chức Lãnh Binh. Năm 1859, quân Pháp đánh chiếm thành Gia Định, ông đem binh ứng cứu, nhưng chưa kịp đến nơi thì thành bị hạ. Sau đó, ông được lệnh đóng giữ phòng tuyến Kỳ Hòa, ở đồn Cây Mai. Do lực lượng và vũ khí của quân Pháp quá mạnh nên chỉ sau một thời gian cầm cự, ông phải rút quân về Gò Công, cùng phối hợp chiến đấu với nghĩa quân Trương Định. Ngày 27-6-1866, ông bị trúng đạn và hy sinh trong một trận giao chiến với quân Pháp. Thi hài của ông được đưa về nơi quê hương tại Mỹ Lồng và chôn cất tạm tại đình làng suốt 30 ngày.
-
Di tích mộ Võ Trường Toản nằm cách trung tâm thành phố khoảng 45 km về hướng Đông. Trải qua bao biến cố thăng trầm, lăng mộ Võ Trường Toản đã được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là Di tích lịch sử cấp quốc gia vào năm 1998.Võ Trường Toản là người chí sĩ yêu nước và là một nhà giáo, nhà thơ lớn của Việt Nam vào thế kỷ 18. Ông là người có công lớn đối với sự nghiệp giáo dục tại đất Nam Kỳ xưa. Theo GS. Trịnh Vân Thanh, Võ Trường Toản vốn là người gốc Hoa lánh nạn Mãn Thanh sang cư trú ở Đàng Trong. Sau cuộc hôn nhân của công chúa Ngọc Vạn và vua Chân Lạp diễn ra, tổ tiên Võ Trường Toản bắt đầu di cư vào miền Nam lập nghiệp. Cho đến hiện nay vẫn chưa có một thông tin chính xác nào về tư liệu cá nhân của ông, chỉ biết ông có người vợ và sinh được một người con gái nhưng đã mất từ thuở nhỏ. Ông là người học rộng, tài cao, theo đạo thánh hiền nhưng lại chán ghét chốn quan trường. Võ Trường Toản không chọn tham gia chính sự mà về ở ẩn mở trường dạy học, học trò của ông có đến hàng trăm người. Trong số đó có nhiều nhân tài nổi bật như: Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhân Tịnh, Lê Quang Định, Phạm Ngọc Uẩn... Võ Trường Toản với nền học thức uyên bác, sâu rộng được xem là người đặt nền móng cho nền giáo dục xứ Đàng Trong thời bấy giờ. Ông còn được giới sĩ phu Nam Kỳ tôn xưng là "Cụ tổ ngành giáo dục". Võ Trường Toản mất ngày 27/7/1792 nhằm ngày 9 tháng 6 âm lịch, mặc dù không ra làm quan nhưng tài đức của ông được các vua nhà Nguyễn hết lòng kính phục. Sau hơn nửa thế kỷ, để tưởng nhớ công đức của vị lương sư, vua Tự Đức đã ban tặng danh hiệu cao quý “Gia Định xử sĩ Sùng Đức Võ tiên sinh”” và cho lập lăng mộ cùng nhà thờ để hương khói.Ban đầu, ông được an táng tại làng Hòa Hưng thuộc tỉnh Gia Định. Đến năm 1862 khi quân Pháp chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ, vì không để mộ phần thầy nằm trong vùng cai quản của quân xâm lược nên các học trò Võ Trường Toản đã tiến hành cải táng di cốt ông cùng vợ con mang về một mảnh đất tại làng Mù U (nay là Di tích mộ Võ Trường Toản) để chôn cất. Được biết Di tích mộ Võ Trường Toản trước đây thuộc quyền sở hữu của dòng họ ông Phan Thanh Giản là một vị quan đại thần triều Nguyễn. Bởi vì kính nể đức cao vọng trọng của Võ Trường Toản mà ông hiến đất để lập đền thờ và cho con cháu chăm sóc phần mộ cụ Toản đến ngày nay.
-
Địa chỉ: Xã Đại Điền, huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre. Vào năm 1904, nhà cổ Huỳnh Phủ được hoàn thành và mang đậm nét kiến trúc đặc trưng của xứ Huế. Ngôi nhà được xây dựng theo cấu trúc xuyên trính (có hai cột ở trung tâm, vì kèo nằm về hai phía đối xứng đòn đông và được nối với nhau bằng một thanh dầm ngang còn được gọi là trính hay trến). Nền nhà cổ Huỳnh Phủ thì được xây tam cấp, lót gạch Tàu với kiến trúc hình chữ nhất, gồm 3 phòng chính và thêm 2 phòng nhỏ ở đầu hồi. Gian thứ nhất là nơi thờ Phật, tổ tiên trong gia đình và thường được dùng để sinh hoạt chung với bề ngang khoảng 17m, chiều dài tầm 25m. Nhà cổ Huỳnh Phủ được xây dựng hoàn toàn bằng thủ công với 48 cột lớn bằng gỗ lim, căm xe còn lại 32 cây bằng xi măng. Bước vào trong, bạn chắc chắn sẽ hiểu được lý do nên đi khám phá Bến Tre của bản thân là gì bởi vì bạn chắc chắn sẽ bị choáng ngợp khi được tận mắt chiêm ngưỡng những hoa văn chạm khắc vô cùng tỉ mỉ, tinh tế và công phu. Hệ thống vì kèo, xuyên trính của nhà cổ Huỳnh Phủ đều được chạm trổ công phu và tỉ mỉ đến từng chi tiết nhỏ. Nếu nhìn lên trên trần nhà, bạn sẽ thấy có một vài mái ngói mà mặt âm của nó được vẽ hoa văn mây nước vô cùng tinh xảo. Ngày xưa, toàn bộ mái ngói ở nhà cổ Huỳnh Phủ đều được vẽ hoa văn nhưng vào cuối năm 2006, cơn bão cấp 9 đã làm cho phần ngói bị hư hỏng khá nhiều nên gia đình phải lựa những viên còn sử dụng được để lợp lại giữ kỷ niệm.
-
Vào ngày 16/05/2020, hàng trăm người dân phấn khởi tham dự lễ khánh thành công trình nâng cấp, trùng tu di tích Cây Da đôi. Khu di tích này tọa lạc tại Ngã ba Cây Da đôi, thuộc xã Tân Xuân, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre - Nơi tổ chức buổi mít tinh ra mắt chi bộ Đảng đầu tiên của tỉnh. Ngã ba này ngày trước gọi là Ngã ba Tân Xuân, từ khi xuất hiện cây Da đôi, bà con địa phương mới gọi luôn là Ngã ba Cây Da đôi. Ở xã Tân Xuân nằm ven dòng sông Ba Lai cách thị trấn Ba Tri chừng 12km, người dân địa phương có truyền thống yêu nước vô cùng sâu sắc. Từ giai đoạn năm 1927, phong trào mang tên Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí hội bắt đầu phát triển mạnh mẽ ở xã Tân Xuân, là tiền đề cho sự thành lập của tổ chức Đảng Cộng sản Đông Dương. Đầu tháng 04/1930, một nhóm Thanh niên Cách mạng đồng chí hội xã Tân Xuân được vinh dự kết nạp vào Đảng. Đến cuối tháng 04/1930, đội ngũ Đảng viên của xã đã có 10 người. Lúc bấy giờ, nhận thấy điều kiện thành lập chi bộ đã đủ, đồng chí Nguyễn Văn Ân thay mặt Tỉnh ủy lâm thời tỉnh Bến Tre - Mỹ Tho đứng ra thành lập nên Chi bộ Đảng Cộng sản Đông Dương tại xã Tân Xuân - Chi bộ Đảng đầu tiên được ra đời ở Bến Tre.